Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Tố Hữu là nhà thơ hăng hái dấn thân vào sự nghiệp giải phóng đất nước bằng trái tim và lòng yêu nước sôi sục. Ông là lá cờ tiên phong cho thơ ca cách mạng với nhiều tác phẩm vô cùng giá trị. Việt Bắc là một tác phẩm tiêu biểu xuất sắc của ông.
Việt Bắc được sáng tác vào năm 1954 kể lại một chặng đường khó khăn của dân tộc để đi đến thắng lợi với những câu thơ hào hùng, đầy lòng tự hào của tác giả.
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Bài thơ bắt đầu với tự tình của người ở lại. Tác giả đã tạo nên khung cảnh lưu luyến giữa cuộc chia tay vỉa người Việt Bắc và người lính. Từ “thiết tha mặn nồng” không chỉ nói về tình cảm lứa đôi mà còn là những sẻ chia nên cái nặng sâu của tình nghĩa. Tác giả chỉ dùng hai hỏi đã gợi lên một thời cách mạng, kháng chiến. Người ở nhắc nhắc cho người đi về thời kỳ đầu tiên xây nền móng cách mạng kháng chiến. Dùng hình ảnh miêu tả sông, núi, rừng làm nỗi nhớ trở nên sâu đậm đồng thời gợi về những đặc điểm quen thuộc của quê hương Việt Bắc.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Người ra đi đã hồi đáp lời của người ở lại. Sự tri kỷ khiến họ thấu hiểu nhau cùng hô ứng đồng vọng. Nhà thơ sử dụng những cặp từ láy như bâng khuâng, bồn chồn, tạo nhạc điệu và cho thấy cảm xúc của người ra đi. Bâng khuâng là từ láy thể hiện cảm xúc mơ hồ đan xen buồn vui. Bồn chồn là tâm trạng không nỡ lìa xa.
Áo chàm là hình ảnh đơn sơ, giày nghĩa tình, không thể nhạt phai như tấm lòng thủy chung của người Việt Bắc. Sự lưu luyến được thể hiện trong nhịp thơ 3/3/2 thể hiện cảnh chia tay đầy tiếc nuối, nhớ nhung. Tám câu thơ đầu đã diễn tả cảm xúc băn khoăn, trăn trở của người đi và người ở lại.
Đoạn thơ tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong nỗi nhớ:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi”
Sắc thái của nỗi nhớ được tác giả thể hiện thật cụ thể. Nhớ người yêu là nỗi nhớ biểu hiện của tình yêu sâu sắc. Từng cảnh vật của Việt Bắc liên tiếp hiện ra trong nỗi nhớ của người đi: Việt Bắc với tươi đẹp, với ánh nắng ấm áp, với khói sương huyền ảo và bếp lửa nghĩa tình. Những địa danh tác giả từng trải qua đều in đậm trong tiềm thức của người ra đi.
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa.”
Tác giả tả về vẻ đẹp của người Việt Bắc trong sinh hoạt đời thường. Đắng cay là những thiếu thốn trong đời sống vật chất, còn ngọt bùi là tình yêu thương giữa cán bộ và đồng bào. Những xúc động chứa đựng trong mấy chữ đắng cay, ngọt bùi. Tác giả đã tả về cuộc sống đói nghèo của người dân. Thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Người chiến sĩ và nhân dân không chỉ đối mặt với kẻ thù mà còn cả cái đói, cái rét. Đó là một tình cảm đáng trân trọng. Người cán bộ cũng bồi hồi nhớ về người mẹ Việt Bắc cơ cực, vất vả địu con lên rẫy. Lớp học bình dân học vụ với những giờ sinh hoạt cũng hiện ra thật ấm áp. Khép lại đoạn thơ là hình ảnh thân thương “tiếng mõ”, gợi tả âm thanh êm dịu, thanh bình của một cuộc sống thật bình dị, giản đơn.
Cảnh thiên nhiên bốn mùa ở Việt Bắc là bức tranh tứ bình đầy màu sắc:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mùa đông trong thơ Tố Hữu ấm áp một cách kỳ lạ làm xua tan cái hiu hắt của đồi núi. Mùa xuân là một rừng hoa mơ tinh khiết, trắng ngần với sức sống tràn trề của núi rừng Việt Bắc và đồng thời gợi cảm giác xốn xao , nhớ nhung trong lòng. Mùa hè là khúc nhạc tình ca của đàn ve và hình ảnh con người giản dị giữa thiên nhiên. Tác giả đón nhận mùa hè bằng tất cả các giác quan của mình. Người cán bộ sau đó đã nhớ về trăng ở Việt Bắc vào mùa thu. Ánh trăng trong sáng hòa bình đem bao ước vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Giữa sự thay đổi của bốn mùa, hình ảnh người lao động hiện ra thật giản dị, chăm chỉ đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Đoạn tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong chiến đấu:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Từng sự kiện được gợi lên với biết bao đau thương, mất mát nhưng người dân vẫn một lòng đoàn kết thành lập một chiến tuyến chống kẻ thù. Đoạn thơ thể hiện không khí chiến đấu của con người Việt Bắc: núi vươn lên thành lũy sắt, rừng thành phòng tuyến chống quân thù. Điệp từ kết hợp với phép nhân hóa thể hiện sức mạnh đoàn kết của con người và thiên nhiên. Khí thế xung trận thể hiện bằng từ láy rầm rập, gấp gáp của đoàn quân. Tất cả đoàn quân cùng bước đi mạnh mẽ, từng đợt này nối tiếp đợt kia. Khí thế ấy được thể hiện bằng hình ảnh:
“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Và tin vui chiến thắng cuối cùng cũng đến:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Nhà thơ chuyển sang nhịp điệu vui tươi, dồn dập, mọi người từ khắp cả nước cùng đón chào chiến thắng, đón chào một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Bài thơ lục bát sử dụng nhiều biện pháp tu từ độc đáo bút pháp tả cảnh ngụ tình để lại cho người đọc ấn tượng khó phai về cuộc kháng chiến lịch sử của dân tộc.
Tố Hữu đã khắc họa thành công những sự kiện, những kỉ niệm thời kháng chiến với những cảm xúc trọn vẹn, đó chính là khúc hát tâm tình và truyền thống, đạo lí cội nguồn của dân tộc.
Các bài viết liên quan: